Thép phục hồi mạnh, nhưng triển vọng không chắc chắn Hiệp hội Thép Thế giới (Worldsteel) đưa ra Triển vọng thép thế giới trong năm 2017-2018. Worldsteel dự báo rằng nhu cầu thép toàn cầu sẽ tăng 1,3% đạt 1.535,2 triệu tấn trong năm 2017, sau tăng trưởng 1,0% trong năm 2016. Năm 2018, dự báo nhu cầu thép toàn cầu sẽ tăng 0,9% và sẽ đạt 1.548,5 triệu tấn.
Thép phục hồi mạnh, nhưng triển vọng không chắc chắn Hiệp hội Thép Thế giới (Worldsteel) đưa ra Triển vọng thép thế giới trong năm 2017-2018. Worldsteel dự báo rằng nhu cầu thép toàn cầu sẽ tăng 1,3% đạt 1.535,2 triệu tấn trong năm 2017, sau tăng trưởng 1,0% trong năm 2016. Năm 2018, dự báo nhu cầu thép toàn cầu sẽ tăng 0,9% và sẽ đạt 1.548,5 triệu tấn.
Ngày 20/7/2023, Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo tẻ thường. Lệnh dừng xuất khẩu gạo được Ấn Độ đưa ra trong bối cảnh giá gạo tại nước này đã tăng hơn 11,5% trong vòng 1 năm (tính tới ngày lệnh cấm được ban hành). Thêm vào đó, diễn biến thời tiết không thuận lợi trong vụ lúa Xuân Hè càng thúc đẩy Chính phủ Ấn Độ đi tới quyết định này. Lệnh dừng xuất khẩu được cho là nhằm giúp Ấn Độ thúc đẩy nguồn cung lương thực trong nước và kiểm soát lạm phát. Ấn Độ là nước cung cấp gạo hàng đầu thế giới với 40% thị phần, tiếp theo là Thái Lan và Việt Nam.Mặc dù Ấn Độ tiếp tục xuất khẩu gạo đồ và gạo basmati theo các cam kết quốc tế, nhưng giá gạo toàn cầu đã tăng 15 - 25% kể từ khi lệnh cấm được áp dụng, chạm mức cao nhất trong vòng 15 năm vào tháng 8/2023. Thiệt hại lớn nhất ập xuống các quốc gia phụ thuộc vào gạo trắng Ấn Độ như Bangladesh và Nepal hay một số nước châu Phi thường sử dụng gạo tấm như Benin, Senegal, Togo và Mali. Nhiều chuyên gia cho biết, tình trạng thiếu gạo sẽ khiến giá của các loại lương thực khác như lúa mì, đậu tương và ngô tăng cao.Khi thị trường còn chưa kịp thích ứng với sự biến động giá mạnh sau lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ, nước này lại chính thức công bố áp thuế xuất khẩu 20% đối với gạo đồ chỉ một tháng sau đó. Động thái này làm hạn chế thêm lượng gạo xuất khẩu cũng như thúc đẩy đà tăng của giá gạo toàn cầu.
Lạm phát đã bắt đầu có dấu hiệu chậm lại ở một số nước châu Á, nhưng vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Vào tháng 11/2023, lạm phát tại Philippines đạt 4,1%, so với mức 3,1% ở Mỹ và 2,4% ở Khu vực đồng euro (Eurozone). Gần một phần ba mức tăng này là do giá gạo tăng. Giá lúa mỳ và ngô đã tăng vọt trên toàn cầu vào năm 2022 sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng ở Ukraine, nơi được coi là vựa lúa mỳ của châu Âu. Trong khi lạm phát lương thực ảnh hưởng nặng nề đến Mỹ và châu Âu, thì tác động của cuộc xung đột Nga-Ukraine lại tương đối hạn chế ở châu Á.Nhưng từ đầu năm đến nay, "trung tâm" của lạm phát lương thực đã chuyển sang châu Á, nơi chiếm khoảng 80% nhu cầu gạo toàn cầu. Trong khi giá lúa mỳ quốc tế đã bắt đầu giảm, thì giá gạo lại tăng lên mức cao nhất trong vòng 15 năm vào cuối tháng 12/2023, tăng khoảng 40% so với hồi tháng 1/2023. Thế giới dường như đang sắp rơi vào một vòng xoáy tiêu cực, trong đó những lo ngại về an ninh lương thực và thời tiết bất thường khiến các nước sản xuất ngũ cốc phải tích trữ, càng làm trầm trọng mối lo về nguy cơ nguồn cung bị thiếu hụt. Nhà kinh tế hàng đầu phụ trách khu vực châu Á tại HSBC, Frederic Neumann cho biết, ký ức về cuộc khủng hoảng giá thực phẩm ở châu Á trong năm 2008 vẫn còn in sâu. Giá thực phẩm tăng vọt trên toàn thế giới cách đây 15 năm do dòng tiền đầu cơ đổ vào thị trường. Theo Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI), giá của nhiều loại thực phẩm đang biến động mạnh, xảy ra ở 7 trong 8 loại cây trồng chủ lực trong năm 2023.Lạm phát lương thực đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân ở Nam Á và Đông Nam Á, nơi thực phẩm chiếm 30% đến 50% tổng chi tiêu hộ gia đình, so với khoảng 10-20% ở các nền kinh tế đã phát triển. Giá lương thực cao hơn cũng ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ. Để đối phó với lạm phát gia tăng, Ngân hàng trung ương Philippines đã nâng lãi suất chủ chốt thêm 25 điểm cơ bản (0,25%) lên 6,5%/năm tại cuộc họp khẩn cấp hồi cuối tháng 10/2023.Có nhiều đồn đoán rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), vốn đi đầu trong việc thắt chặt tiền tệ toàn cầu, sẽ chuyển sang chính sách nới lỏng vào năm 2024, làm dấy lên kỳ vọng rằng nền kinh tế Mỹ có thể hạ cánh mềm. Tuy nhiên, nhiều nước châu Á chưa thoát khỏi khó khăn với lạm phát lương thực vẫn đang âm ỉ, khiến các nhà hoạch định chính sách trong khu vực tiếp tục phải đối mặt với nhiệm vụ đầy thách thức là cân bằng giữa kiểm soát giá cả và tăng trưởng kinh tế.
Theo báo cáo mới nhất về “Triển vọng Hàng hóa Toàn cầu” của Ngân hàng Thế giới (WB), giá gạo toàn cầu dự kiến sẽ không giảm đáng kể trước năm 2025, do các biện pháp hạn chế xuất khẩu từ các nước sản xuất lớn và mối đe dọa từ hiện tượng EI Nino.Giá gạo toàn cầu năm 2023 ước tăng trung bình hơn 28% so với năm 2022, và dự kiến sẽ tăng thêm 6% vào năm 2024. Nguyên nhân là do hiện tượng El Nino, phản ứng với chính sách từ các nhà xuất khẩu và nhập khẩu quan trọng...Theo một nghiên cứu của Trung Quốc, lúa là loại cây trồng dễ bị tổn thương nhất và có khả năng mất mùa cao nhất trong thời gian xảy ra hiện tượng El Nino. Trung Quốc đang trải qua đợt hạn hán có thể là khốc liệt nhất trong hai thập kỷ ở nhiều vùng trồng lúa. Ngoài các thách thức nói trên, gạo cũng thiếu hụt vì nhu cầu tăng cao, trong bối cảnh trở thành nguồn thay thế hấp dẫn cho các loại ngũ cốc bị thiếu hụt và tăng giá mạnh do ảnh hưởng của cuộc xung đột Nga - Ukraine.Theo hãng tin Bloomberg, giới phân tích thị trường và một số thương nhân dự báo sản lượng gạo trái vụ từ hai quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới là Ấn Độ và Thái Lan sẽ giảm trong quý I/2024 do thời tiết khô hạn và mực nước tại các hồ chứa xuống thấp. Trong khi nông dân trồng lúa tại nước nhập khẩu gạo hàng đầu là Indonesia vẫn đang chống chọi với hạn hán.Để đảm bảo nguồn dự trữ gạo của đất nước, Chính phủ Indonesia đã chỉ đạo Cơ quan Hậu cần Nhà nước (Bulog) nhập khẩu thêm 2 triệu tấn gạo vào năm 2024. Theo Chủ tịch kiêm Giám đốc Bulog, ông Budi Waseso, chính phủ sẽ theo dõi chặt chẽ tình hình sản xuất lúa gạo địa phương cũng như điều kiện thời tiết. Nếu dự báo sản lượng lúa gạo bị thiếu Bulog sẽ cung cấp đủ để bù đắp sự thiếu hụt.
Nhập khẩu mặt hàng thủy sản của một số thị trường lớn có tín hiệu phục hồi. Ảnh: ST
Năm 2023, EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Theo thống kê của ITC, trong 8 tháng đầu năm 2023, nhập khẩu thủy sản của EU từ thị trường ngoài khối đạt 23,04 tỷ USD, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, với mức giảm mạnh, Việt Nam xuống vị trí là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 8 cho EU trong 8 tháng đầu năm 2023, sau Na Uy, Ecuador, Moroc, Anh, Trung Quốc, Ailen và Ấn Độ, đạt 652 triệu USD, giảm 31,1% so với cùng kỳ năm 2022, mức giảm mạnh nhất trong 10 thị trường cung cấp thủy sản lớn nhất cho EU. Thị phần thủy sản Việt Nam trong tổng nhập khẩu từ các thị trường ngoài khối của EU giảm từ 4% trong 8 tháng đầu năm 2022 xuống 2,8% trong 8 tháng đầu năm 2023.
Mỹ là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 2 thế giới, đạt 21,75 tỷ USD trong 10 tháng năm 2023, giảm 16,3% so với cùng kỳ năm 2022. Trong các tháng gần đây, tốc độ giảm trị giá nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ chậm lại đáng kể, chỉ ở mức 5,5 – 5,6% trong tháng 9 và 10/2023. Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 6 cho Mỹ, sau Canada, Chile, Ấn Độ, Indonesia, Ecuador. Đáng chú ý, tháng 10/2023, Mỹ tăng mạnh nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam, tăng 138% về lượng và tăng 24,76% về trị giá so với tháng 10/2022, đạt 46,9 nghìn tấn, trị giá 188,13 triệu USD. Tính chung 10 tháng năm 2023, nhập khẩu thủy sản của Mỹ từ Việt Nam đạt 162,4 nghìn tấn, trị giá 1,36 tỷ USD, giảm 0,64% về lượng và giảm 29,48% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 9,96% về lượng và 6,26% về trị giá trong tổng nhập khẩu của Mỹ.
Thị trường Trung Quốc ngày càng nhập khẩu nhiều thủy sản từ các nước. Thị trường này giữ vị trí quan trọng đối với các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam. Những năm gần đây, Trung Quốc nằm trong top 3 thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ và Nhật Bản. Năm 2023, xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc sụt giảm vì giá xuất khẩu giảm nhưng triển vọng và dư địa ở thị trường này vẫn rộng mở đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Theo VASEP, Trung Quốc đang là thị trường xuất khẩu trụ cột của nhiều sản phẩm thủy sản Việt Nam. Trong đó, cá tra xuất khẩu sang Trung Quốc luôn chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trung Quốc cũng trong Top 5 thị trường nhập khẩu nhiều tôm của Việt Nam.
Tại thị trường Nhật Bản, bên cạnh là thị trường nhập khẩu lớn thứ tư của thế giới thì Nhật Bản cũng đang ra sức đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của nước này. Theo Bộ Thủy sản Nhật Bản, xuất khẩu thủy sản của nước này trong tháng 10/2023 đạt 25 tỷ yên, tương đương 170 triệu USD, giảm 28% so với năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu thủy sản của Nhật Bản đến Trung Quốc giảm hơn 80%. Trong khi đó, xuất khẩu thủy sản của Nhật Bản sang Mỹ tăng 18% so với cùng kỳ năm 2022, với sản phẩm dẫn đầu là sò điệp. Bộ Thủy sản Nhật Bản có kế hoạch mời các doanh nghiệp nhập khẩu từ các nước như Canada và Singapore đến thăm các nhà máy ở Nhật Bản trong tháng 12/2023 để mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản.
Trong tháng 10/2023, nhập khẩu thủy sản của Hàn Quốc đạt 102,51 nghìn tấn, trị giá 451,4 triệu USD, giảm 18,8% về lượng và giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 10 tháng năm 2023, nhập khẩu thủy sản của Hàn Quốc đạt 1,09 triệu tấn, trị giá 4,873 tỷ USD, giảm 17,6% về lượng và giảm 8,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Kinh tế tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn khiến nhu cầu nhập khẩu thủy sản của nước này chưa có dấu hiệu phục hồi.
Trung Quốc, Nga và Việt Nam là 3 thị trường cung cấp thủy sản lớn nhất cho Hàn Quốc trong tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2023. Trong khi nhập khẩu từ Việt Nam tăng, Hàn Quốc giảm mua từ Nga và Trung Quốc. Dự báo, nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hàn Quốc cuối năm 2023 và tháng 1/2024 sẽ dần phục hồi khi nhu cầu tiêu dùng cho các kỳ nghỉ lễ đón năm mới tăng lên.
(Theo Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương)